top of page
Tìm kiếm

LÀNG EM-MA-ÚT – NƠI CHÚA GIÊ XU GẶP GỠ HAI MÔN ĐỒ SAU KHI CHÚA PHỤC SINH.



 

Cuối tháng 3 năm nay, lần nữa Hội Thánh Chúa lại cùng nhau kỷ niệm ngày Chúa đã Phục Sinh để đem sự sống đến cho những ai là con cái của Ngài. Có nhiều những điều kỳ diệu trong sự phục sinh của Chúa, có nhiều cuộc gặp gỡ khác nhau với Chúa Giê-xu sau khi Chúa phục sinh, đã thay đổi thế giới ngày hôm nay. Một trong những cuộc gặp gỡ Chúa ly kỳ đó chính là con đường “đi đến làng kia, gọi là Em-ma-út, cách thành Giê-ru-sa-lem sáu mươi ếch-ta-đơ;” Lu-ca 24:13.

 

Câu chuyện gặp gỡ của hai môn đồ tại làng Em-ma-út được chép trong sách Tin Lành Lu Ca 24:13-35 là một câu chuyện cảm động của hai môn đồ của Chúa Giê-xu. Trong khi hai môn đồ còn đang thất vọng, buồn bực về sự chết của Chúa Giê-xu, họ đang bối rối vì những thông tin Chúa đã chết, ngôi mộ trống nhưng không thấy Chúa ở đâu. Trên quãng đường đi bộ từ thành phố Giê-ru-sa-lem đến làng Em-ma-út họ đã tranh cãi với nhau vì những sự họ đã xảy ra. Thì tại đó, họ đã gặp Chúa Giê-xu “Nhưng mắt hai người ấy bị che khuất không nhìn biết Ngài được.” Lu-ca 24:16. Chúa đã quan tâm, nghe họ nói, trả lời với họ nhưng họ vẫn không nhận ra Ngài. Khi họ nài ép Chúa ở lại cùng họ, Chúa đã ở lại “ Ngài ngồi ăn cùng hai người, lấy bánh, chúc tạ, đoạn, bẻ ra cho họ. Mắt họ bèn mở ra, mà nhìn biết Ngài; song Ngài thoạt biến đi không thấy.” Lu-ca 24:30-31. Sau đó họ quay về Giê-ru-sa-lem để nói với các môn đồ về Chúa thật đã sống lại.

 

CÁC MÔN ĐỒ NÀY LÀ AI?

 

Sách Tin Lành Luca cho biết một trong số các môn đệ tên là Cơ-lê-ô-ba (Lu ca 24:14). Truyền thống Cơ đốc giáo cổ xưa nói rằng Cơ-lê-ô-ba chính là anh trai Giô-sép, chồng của Ma-ri, cha mẹ về phần xác của Chúa Giê-xu. Truyền thống của cơ đốc giáo cũng cho rằng sau này Cơ-lê-ô-ba đã bị ném đá đến chết bên ngoài nhà riêng của mình vì tuyên bố rằng cháu trai của ông, Chúa Giê-su là Đấng Mê-si đã được các nhà tiên tri báo trước.

 

Người ta tin rằng “Tại một bên thập tự giá của Đức Chúa Jêsus, có mẹ Ngài đứng đó, với chị mẹ Ngài và Ma-ri vợ Cơ-lê-ô-ba, và Ma-ri Ma-đơ-len nữa.” Giăng 19:25. Ma-ri được nhắc ở trên như là vợ của Cơ-lê-ô-ba chính là vợ của môn đồ mà Chúa gặp trên đường đi đến làng Em-ma-út.

 

Truyền thống tương tự cũng nói rằng người môn đồ khác đi cùng với Cơ-lê-ô-ba chính là con trai út của Cơ-lê-ô-ba, được gọi là Simeon - người sau đó đã phục vụ 43 năm với tư cách là người đứng đầu Nhà thờ Do Thái-Cơ đốc giáo ở Palestine và đã tử vì đạo ở tuổi 120.

 



LÀNG EM-MA-ÚT NẰM Ở ĐÂU?

 

Câu chuyện về ngôi làng này chỉ được chép trong sách Tin Lành Lu Ca và địa danh chính xác của làng Em-ma-út đã bị thất lạc trong thời kỳ Cơ Đốc. Có một số địa danh được đề xuất trong thời kỳ trước nhưng lại mâu thuẫn với khoảng cách mà sách Lu ca ghi lại “làng kia, gọi là Em-ma-út, cách thành Giê-ru-sa-lem sáu mươi ếch-ta-đơ;” Lu-ca 24:13. Chú thích của Kinh Thánh thì sáu mươi Ếch-ta-đơ khoảng gần 12 km. Hầu hết các văn bản Kinh Thánh (bao gồm cả văn bản sớm nhất) đều cho khoảng cách là 60 stadia (ếch-ta-đơ), nhưng một số cho nó là 160 stadia. Một stadion La Mã (số nhiều là stadia) bằng 185 mét. 60 stadia(ếch-ta-đơ) sẽ vào khoảng 11 km (chỉ dưới 7 dặm) và 160 stadia sẽ là 29,5 km (chỉ hơn 18 dặm).

 

Bởi vậy có bốn nơi mà người ta cho rằng đây là làng Em-ma-út:

 

1.      Nicopolis (còn được gọi là Emmaus, Amwas và Imwas), gần Latrun, cuối Thung lũng Ayalon, cách Jerusalem khoảng 160 stadia (30km).

 



Những người theo đạo Cơ đốc vào thế kỷ thứ 4 coi đây là địa điểm Em-ma-út của sách Lu-ca. St Jerome trong một trong những bức thư của mình thậm chí còn ngụ ý rằng ở đây có một nhà thờ được xây dựng trong nhà của Cleophas . Truyền thống này mạnh mẽ đến mức mà một số các học giả đã “sửa” bản văn của sách Tin Lành để đọc là 160 stadia chứ không phải 60 stadia. 

 

Vào khoảng năm 220, theo sau một phái đoàn dẫn đầu bởi tỉnh trưởng Emmaus, Sextus Iulius Africanus (một tín đồ Cơ đốc lỗi lạc) đã mang lệnh của hoàng đế Elagabalus để Emmaus thành một thành phố và đổi tên thành Nicopolis.

 

Thị trấn đã bị xóa sổ bởi bệnh dịch vào năm 639, được tái lập và trở thành nơi đóng quân cuối cùng của quân Thập tự chinh trên đường đến Jerusalem vào năm 1099.

 

Trong thời hiện đại, Amwas / Nicopolis một lần nữa được học giả kinh thánh thế kỷ 19 Edward Robinson chấp nhận là Em-ma-út. Những người ủng hộ Nicopolis nêu ra khả năng rằng các môn đồ đã trở lại Giê-ru-sa-lem một ngày sau khi gặp Chúa Giê-su Christ.

 

Ngôi làng Amwas của Ả Rập đã bị Israel san bằng sau Chiến tranh 6 ngày vào năm 1967. Tàn tích của nó nằm trong Công viên Ayalon cách Giao lộ Latrun 2km về phía bắc. Phía bắc tu viện Xitô ở Latrun là tàn tích của một nhà thờ Byzantine lớn với sàn khảm, bên trong được xây dựng một nhà thờ Thập tự chinh nhỏ hơn.

 

Các đặc điểm chống lại Nicopolis là làng Em-ma-út : 1) Khoảng cách lớn hơn nhiều so với khoảng cách 60 trong hầu hết các bản văn Phúc âm đầu tiên. 2) Các môn đồ sẽ rất khó khăn khi đi bộ từ Giê-ru-sa-lem đến đây và ngược dòng trở về vào buổi tối trước khi các cổng thành đóng lại. 3) Sự tồn tại của Em-ma-út này đã được nhiều người biết đến, vì vậy Lu-ca sẽ không cần phải xác định nó bằng khoảng cách xa.

 

2.      Abu Ghosh , gần Kiryat Yearim (hay Kiryat el-Enab), chỉ cách Jerusalem hơn 60 stadia (11km) về phía tây trên con đường chính đến Joppa.




Khi truyền thống Amwas bị mất, quân Thập tự chinh đã định cư tại Kiryat el-Enab với cái tên Emmaus. Họ đã xây dựng một nhà thờ ở đó vào năm 1140 và gọi nơi này là Castellum Emmaus.47 năm sau đó, quân Thập tự chinh bị đánh bại, người Hồi giáo đã sử dụng nhà thờ làm chuồng ngựa.

 

Thị trấn này trước đây được biết đến là nơi đặt Hòm Giao ước trong 20 năm kể từ khi được lấy lại từ người Philistines và được đưa đến Jerusalem bởi Vua David vào khoảng năm 1000 trước Công nguyên.

 

Đầu thế kỷ 19, nơi này đã được đổi tên thành Abu Ghosh, tại đây còn có một Nhà thờ Crusader, hiện đã được khôi phục với tên gọi Nhà thờ Phục sinh, vẫn là một trong những ví dụ điển hình nhất về kiến ​​trúc Crusader. Khung cảnh yên tĩnh của nó tiếp giáp với một tu viện Benedictine. 

 

Các đặc điểm chống lại Abu Ghosh là làng Em-ma-út  : 1) Kiryat Yearim không được gọi là Emmaus vào thế kỷ 1. 2) Nó không được xác định với Emmaus của Lu-ca cho đến thế kỷ 12.

 

3.      El-Qubeibeh (hay El-Kubeibeh), trên con đường La Mã đến Lydda, chỉ cách Jerusalem hơn 60 (11km) về phía tây bắc.





Với việc quân Thập tự chinh bị trục xuất khỏi Đất Thánh, những người theo đạo Thiên chúa trong những thế kỷ sau bị cấm sử dụng trục đường chính từ đồng bằng ven biển đến Jerusalem và họ bị từ chối không cho tiếp cận Abu Ghosh.

 

El-Qubeibeh, từng là một phần của khu vực nông nghiệp của Nhà thờ Mộ Thánh , nơi này lần đầu tiên được gợi ý là làng Emmaus vào năm 1280. Ngôi làng nằm trên một con đường La Mã và vào năm 1099, những người lính Thập tự chinh phát hiện ra một pháo đài La Mã ở đó được gọi là Castellum Emmaus.

 

Địa điểm được chấp nhận vào năm 1335 bởi các tu sĩ dòng Phanxicô và tại đây vào thế kỷ 20 các nhà khảo cổ đã tìm thấy bằng chứng về sự chiếm đóng vào thời La Mã.

 

Các tu sĩ dòng Phanxicô đã xây dựng một nhà thờ theo phong cách Crusader vào năm 1902. Trên mặt tiền của nhà thờ là bức tranh gốm khắc họa Chúa Kitô và hai môn đệ. Bên trong, dưới kính, là phần còn lại của những gì được cho là nền móng của ngôi nhà của Cleophas . Gần nhà thờ một đoạn đường La Mã đã được khai quật và El-Qubeibeh là ứng cử viên Emmaus duy nhất ở Palestine vào thời kỳ đó.

 

Các đặc điểm chống lại El-Qubeibeh là làng Em-ma-út  : 1) Ngôi làng không được gọi là Emmaus vào thế kỷ thứ nhất. 2) Không có đồ vật Do Thái nào được tìm thấy ở đó. 3) Ngôi làng không được xác định trong Phúc âm Lu-ca cho đến cuối thế kỷ 13.


4.      Colonia (còn gọi là Kulonieh, Emmaus hoặc Ammaous), chỉ cách Jerusalem hơn 30 stadia (6km) về phía tây, trên đường tới Jaffa.




Địa điểm hiện được các học giả hiện đại ưa thích vì rất có thể Emmaus nằm ngay gần đường cao tốc từ Jerusalem đến Tel Aviv và tiếp giáp với vùng ngoại ô hiện đại của Moza .

 

Moza (Một-sa ) cổ đại (hay Mozah) được nhắc đến như một ngôi làng của chi phái Bên-gia-min (Giô-suê 18:26). Theo Kinh Talmud thì vào thời kỳ còn đền tạm, Một-sa là nơi mà người Do Thái thu thập những cành dương liễu cho Lễ Lều Tạm.

 

Sau khi người La Mã phá hủy Jerusalem vào năm 70 sau Công nguyên, hoàng đế Vespasian đã thành lập một thuộc địa gồm 800 cựu binh quân đội ở đó. Điều này được ghi lại bởi nhà sử học Josephus trong Cuộc chiến Do Thái . Ông gọi nơi này là “Ammaous”, và đánh giá quá cao vị trí của nó là “cách xa khu vực có ba người ở Jerusalem”. Thị trấn sau đó được gọi là Colonia, theo tên thuộc địa của các cựu chiến binh.

 

Trong thời hiện đại, một ngôi làng của người Palestine tên là Qalunya đã bị quân Do Thái phá hủy vào năm 1948. Các tàn tích và một vài ngôi nhà biệt lập vẫn còn. Các cuộc khai quật đã tiết lộ bằng chứng về một ngôi làng Do Thái thuộc tầng lớp thượng lưu vào thế kỷ thứ nhất.

 

Không có những đề cập nào về nơi Em-ma-út này trong truyền thống Ky Tô Giáo vì khoảng cách quá gần của nó so với sách Tin Lành Lu Ca. Những người ủng hộ cho nơi này gợi ý rằng 60 stadia của Luke có thể đề cập đến khoảng cách trở lại . 

 

Các đặc điểm chống lại Colonia là làng Em-ma-út  : 1) Không có mối liên hệ nhất định nào giữa Ammaous của Josephus và Emmaus của Luke. 2) Không có truyền thống Cơ đốc giáo vững chắc. 3) Một dấu hỏi vẫn còn trên khoảng cách.

 

Trong số các địa điểm mà người ta đề cập đến phía trên trong nhiều thế kỷ thì ý kiến ​​chuyên gia đang tập trung vào Colonia (hoặc Kulonieh), gần khu phố Do Thái hiện đại của Moza. Các cuộc khai quật được tiến hành bởi học giả Tân Ước Carsten Peter Thiede tại địa điểm này từ năm 2001 đến năm 2004 đã xác nhận sự tồn tại của một ngôi làng Do Thái thuộc tầng lớp thượng lưu từ thế kỷ 1 được gọi là Emmaus.

 

Việc không thể xác định địa điểm của Em-ma-út một cách chắc chắn, mặc dù có tường thuật chi tiết phong phú của Lu-ca, có thể khiến những người tin Chúa có thể tranh luận như hai môn đồ ở trên con đường đi đến làng Em-ma-út. Nhưng chúng ta tin là Kinh Thánh luôn đúng và càng ngày các nhà khảo cổ Kinh Thánh đã chứng minh được điều đó.

 

Qua việc chưa xác định này cũng có những điều hay mà chúng ta có thể học được.

 

• Các địa điểm mà người ta tin đây là làng “Em-ma-út” tại Amwas, Abu Ghosh và El-Qubeibeh, đều là những nơi hấp dẫn để phản ánh thông điệp của câu chuyện Phúc âm.

 

• Bản chất khó nắm bắt của Em-ma-út cho chúng ta một bài học rằng: những gì đã xảy ra vào ngày hôm đó quan trọng hơn nơi nó xảy ra, và những cuộc gặp gỡ với Đấng Christ Phục sinh không chỉ giới hạn trong không gian và trong bất kỳ thời gian nào. Chúng ta có thể gặp Đấng Phục Sinh khi chúng ta mở lòng đối với Ngài, ước mong mỗi người đều gặp gỡ Chúa Phục Sinh trên con đường đi của cuộc đời mình.

 

Mục vụ Do Thái.

 

 

Comments


bottom of page